Ung thư đại, trực tràng là loại u ác tính thường gặp ở đường ruột và dạ dày, tỷ lệ mắc bệnh chỉ đứng sau ung thư phổi. Hằng năm có tới 930.000 ca mới mắc ung thư ruột. Đại đa số bệnh nhân ung thư đại tràng là trên 40 tuổi, bệnh nhân dưới 30 tuổi chiếm 15%. Ung thư đại tràng thường gặp nhiều ở nam giới, tỷ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ là 2-3:1. Ung thư đại, trực tràng rất nguy hiểm, nếu không phát hiện và điều trị sớm có thể gây tử vong rất nhanh chóng.
1. Nguyên nhân ung thư đại, trực tràng
Nguyên nhân gây ra ung thư đại, trực tràng cho tới nay vẫn chưa được biết một cách chính xác, tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư đại, trực tràng bao gồm:
2. Các giai đoạn của ung thư đại, trực tràng
4 Giai đoạn của ung thư đại, trực tràng
Ung thư đại, trực tràng cũng như nhiều loại ung thư khác, có 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn có diễn biến và biểu hiện khác nhau, tỷ lệ % sống trong 5 năm là khác nhau. Tuy nhiên, kết quả này có thể thay đổi phụ thuộc vào phương pháp điều trị và sự đáp ứng điều trị của cơ thể bệnh nhân. Ví dụ, trên thực tế, rất nhiều bệnh nhân ung thư đại, trực tràng giai đoạn 1,2 nếu có phương pháp điều trị phù hợp kết hợp sản phẩm điều trị hỗ trợ hiệu quả, % chữa khỏi khoảng 90%, hoặc bệnh nhân có thể kéo dài tuổi thọ, thậm chí tăng tỷ lệ chữa khỏi bệnh.
* Giai đoạn I: Những tế bào bất thường được tìm thấy trong lớp niêm mạc của thành ruột. Có thể, khối u đã lan xuống lớp dưới niêm và lớp cơ của thành ruột..
* Giai đoạn II:
IIA: Ung thư đã lan qua lớp cơ của thành ruột đến lớp thanh mạc của thành ruột
IIB: Ung thư đã lan qua lớp thanh mạc của thành ruột nhưng chưa xâm lấn vào cơ quan kế cận
IIC: Ung thư đã xâm lấn qua lớp thanh mạc của thành ruột vào cơ quan lân cận
* Giai đoạn III:
IIIA: Ung thư có thể đã xâm lấn qua lớp niêm mạc của thành ruột đến lớp dưới niêm và có thể đã đến lớp cơ của thành ruột. Tế bào ung thư đã di căn đến ít nhất một, nhưng không nhiều hơn 3 hạch bạch huyết lân cận hoặc tế bào hung thư đã hình thành tại mô gần các hạch bạch huyết hoặc ung thư đã lan qua lớp niêm mạc đến lớp dưới niêm. Ung thư đã di căn tới ít nhất 4 nhưng không nhiều hơn 6 hạch bạch huyết lân cận.
IIIB: Ung thư đã lan qua lớp cơ của thành ruột đến lớp thanh mạc hoặc đã lan qua lớp thanh mạc nhưng chưa vào cơ quan gần đó. Ung thư đã di căn đến ít nhất một nhưng không nhiều hơn 3 hạch bạch huyết lân cận hoặc tế bào ung thư đã hình thành trong mô gần các hạch bạch huyết, Ung thư đã lan đến lớp cơ của thành ruột hoặc đến thanh mạc của thành ruột. Ung thư đã di căn đến ít nhất 4 nhưng không nhiều hơn 4 hạch bạch huyết lân cận, Ung thư đã di căn qua lớp niêm mạc đến lớp dưới niêm và có thể đã lan đến lớp cơ của thành ruột. Ung thư đã di căn đến 7 hạch bạch huyết hoặc nhiều hơn.
IIIC: Ung thư đã lan qua lớp thanh mạc của thành ruột nhưng chưa di căn đến cơ quan gần đó. Ung thư đã di căn vào ít nhất 4 nhưng không nhiều hơn 6 hạch bạch huyết gần đó hoặc ung thư đã di căn qua lớp cơ của thành ruột đến lớp thanh mạc của thành ruột hoặc đã lan tới cơ quan lân cận. Ung thư đã di căn đến một hạch bạch huyết hoặc nhiều hơn, hoặc tế bào ung thư đã hình thành trong mô gần các hạch bạch huyết
* Giai đoạn IV
IVA: Ung thư có thể đã xâm lấn qua thành ruột và di căn vào cơ quan lân cận hoặc hạch vùng. Ung thư đã xâm lấn vào một cơ quan xa, như gan, phổi, hoặc buồng trứng hoặc đến hạch bạch huyết xa
IVB: Ung thư có thể đã xâm lấn qua thành ruột và có thể đã di căn đến cơ quan hay hạch bạch huyết lân cận. Ung thư đã di căn vào một hoặc nhiều hơn cơ quan xa hoặc ào thành bụng.
3. Tiên lượng sống sau 5 năm sau khi phát hiện bệnh
Giai đoạn 1: Ung thư đại, trực tràng giai đoạn I được xem là giai đoạn rất sớm của bệnh và có tỷ lệ chữa khỏi cao. Sau phẫu thuật, 94% số bệnh nhân sẽ sống được sau 5 năm nếu đáp ứng được phương pháp và sử dụng sản phẩm hỗ trợ điều trị phù hợp
Giai đoạn 2: Khoảng một phần tư (24%) số người bị ung thư đại, trực tràng được chẩn đoán ở giai đoạn này. Tùy thuộc vào các yếu tố khác nhau, sau khi phẫu thuật, hơn ba phần tư (lên đến 82%) người bệnh ung thư đại tràng giai đoạn 2 có thể sống trên 5 năm nếu đáp ứng được phương pháp và sử dụng sản phẩm hỗ trợ điều trị phù hợp.
Giai đoạn 3: Khoảng 23% số người bệnh ung thư đại, trực tràng được chẩn đoán ở giai đoạn này. Tiên lượng phụ thuộc vào số lượng các hạch bạch huyết có chứa tế bào ung thư. Sau khi phẫu thuật gần một nửa người bệnh (67%) sẽ sống ít nhất 5 năm.
Giai đoạn 4: Đối với ung thư giai đoạn này, tỷ lệ sống thấp, chỉ có khoảng 11% số người bệnh sẽ sống ít nhất 5 năm sau khi được chẩn đoán. Tuy nhiên, nếu ung thư đã di căn vào gan và các khu vực trong gan có thể được loại bỏ bằng phẫu thuật, theo một số nghiên cứu tỷ lệ sống 5 năm vào khoảng 25-40%.
Dựa vào số liệu trên có thể thấy tiên lượng sống của bệnh nhân ung thư đại, trực tràng khá tốt, hoàn toàn có thể chữa khỏi bệnh nếu phát hiện sớm. Hơn 90% bệnh nhân có cơ hội sống sau 5 năm nếu phát hiện bệnh ở giai đoạn đầu.
4. Các phương pháp điều trị ung thư đại, trực tràng
Các phương pháp điều trị ung thư đại, trực tràng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: kích thước, vị trí, phạm vi của khối u và tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân, giai đoạn bệnh.
Vì thế, hiểu rõ nguyên nhân, các giai đoạn của ung thư đại, trực tràng là cách tốt nhất để phòng ngừa, điều trị ung thư đại, trực tràng một cách hiệu quả.
Một số phương pháp điều trị ung thư đại, trực tràng đang được áp dụng hiện nay: Phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, sản phẩm hỗ trợ điều trị. Tuy nhiên, mỗi phương pháp có ưu điểm, nhược điểm riêng.
Phương pháp phẫu thuật: để cắt bỏ khối u là phương pháp phổ biến nhất để điều trị ung thư đại, trực tràng. Thông thường, bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ khối u cùng với một phần đại tràng hoặc trực tràng và các hạch lân cận. Trong hầu hết các trường hợp, bác sĩ có thể nối lại những phần còn lành của đại tràng hoặc trực tràng. Khi không thể nối lại những phần còn lành, cần phải thực hiện phẫu thuật mở thông đại tràng tạm thời hoặc vĩnh viễn. Mở thông đại tràng là một phẫu thuật tạo đường thông từ đại tràng ra thành bụng để tạo ra một con đường mới đưa chất thải ra ngoài. Sau phẫu thuật mở thông đại tràng, bệnh nhân cần mang một túi đặc biệt để đựng chất thải. Một số bệnh nhân cần phẫu thuật mở thông đại tràng tạm thời để cho phép đại tràng dưới và trực tràng liền lại sau khi phẫu thuật. Khoảng 15% bệnh nhân ung thư đại-trực tràng cần phải được mở thông đại tràng vĩnh viễn.
Phương pháp hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc chống ung thư để tiêu diệt tế bào ung thư. Hóa trị liệu có thể được sử dụng để tiêu diệt tất cả những tế bào ung thư còn sót lại trong cơ thể sau phẫu thuật, để kiểm soát sự phát triển của khối u hoặc để giảm bớt triệu chứng của bệnh. Hóa trị liệu là phương pháp điều trị toàn thân, có nghĩa là thuốc đi vào mạch máu và lưu thông trong toàn bộ cơ thể. Hầu hết các loại thuốc điều trị ung thư đều được tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch hoặc qua một ống thông luồn vào tĩnh mạch lớn và lưu lại đó khi cần thiết. Một số loại thuốc ung thư ở dạng viên.
Phương pháp tia xạ trị liệu, còn được gọi là phương pháp phóng xạ, sử dụng tia X có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Tia xạ trị liệu là phương pháp điều trị tại chỗ, có nghĩa là nó chỉ ảnh hưởng tới tế bào ung thư ở vùng chiếu xạ. Phương pháp điều trị này thường được áp dụng nhất cho các bệnh nhân ung thư trực tràng. Bác sĩ có thể sử dụng tia xạ trị liệu trước khi phẫu thuật (để làm khối u co lại và dễ dàng cắt bỏ hơn) hoặc sau khi phẫu thuật (để tiêu diệt tất cả tế bào ung thư còn sót lại trong vùng điều trị). Tia xạ trị liệu còn được sử dụng để làm giảm triệu chứng. Phóng xạ có thể do một máy chiếu từ ngoài (chiếu xạ ngoài) hoặc từ một vật được đưa vào bên trong cơ thể và đặt trực tiếp lên khối u hoặc gần đó (chiếu xạ trong). Một số bệnh nhân được điều trị bằng cả chiếu xạ trong và chiếu xạ ngoài.
Liệu pháp sinh học, còn được gọi là liệu pháp miễn dịch, sử dụng hệ thống miễn dịch của cơ thể để chống lại ung thư. Hệ thống miễn dịch của cơ thể tìm kiếm tế bào ung thư trong cơ thể và tiêu diệt chúng. Các liệu pháp sinh học được sử dụng để sửa chữa, kích thích hoặc tăng cường chức năng chống lại ung thư tự nhiên của hệ thống miễn dịch. Có thể điều trị bằng liệu pháp sinh học trước khi phẫu thuật, đơn độc hoặc phối hợp với hóa trị liệu hoặc tia xạ trị liệu. Hầu hết các loại thuốc sử dụng trong liệu pháp sinh học được tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch.
5. Tác dụng phụ của điều trị ung thư đại, trực tràng và phương pháp khắc phục?
Phương pháp phẫu thuật gây đau và nhạy cảm tạm thời ở vùng phẫu thuật. Phẫu thuật ung thư đại, trực tràng có thể gây ỉa lỏng hoặc táo bón tạm thời. Bệnh nhân được phẫu thuật mở thông đại tràng có thể bị kích thích ở vùng da quanh lỗ mở. Bác sĩ, y tá và bác sĩ chuyên khoa về mở thông ruột sẽ hướng dẫn bệnh nhân cách vệ sinh tại chỗ và phòng chống hiện tượng kích thích và nhiễm khuẩn.
Phương pháp hóa trị liệu tác dụng cả lên tế bào lành và tế bào ung thư. Tác dụng phụ tuỳ thuộc vào loại thuốc và liều lượng cụ thể. Tác dụng phụ thường gặp của hóa trị liệu là buồn nôn và nôn, rụng tóc, đau miệng, ỉa lỏng và mệt mỏi. Các tác dụng phụ nghiêm trọng có thể xảy ra nhưng ít hơn, ví dụ như nhiễm khuẩn hoặc chảy máu.
Phương pháp tia xạ trị liệu, giống như hóa trị liệu, tác động đến cả tế bào lành và tế bào ung thư. Tác dụng phụ của tia xạ trị liệu chủ yếu phụ thuộc vào liều lượng và bộ phận được điều trị. Các tác dụng phụ thường gặp là mệt mỏi, thay đổi da ở vùng chiếu xạ, mất cảm giác ngon miệng, buồn nôn và ỉa lỏng. Đôi khi tia xạ trị liệu có thể gây chảy máu trực tràng (hiện tượng phân có máu).
Liệu pháp sinh học có thể gây ra các tác dụng phụ khác nhau tuỳ theo từng loại điều trị. Thông thường phương pháp điều trị này gây ra các triệu chứng giống cảm cúm, như rét run, sốt, mệt mỏi và buồn nôn.
Những phương pháp điều trị ung thư đại, trực tràng đều gây ra tác dụng phụ nhiều hay ít tùy thuộc cơ địa của người bệnh, vì vậy, việc sử dụng những phương pháp trên kết hợp sản phẩm hỗ trợ điều trị đang được bệnh nhân áp dụng nhiều và mang lại kết quả thành công cao vì ngoài việc ngăn chặn tế bào ung thư đại, trực tràng, sản phẩm hỗ trợ điều trị giúp bệnh nhân tăng sức đề kháng, tăng cường hệ miễn dịch, giúp bệnh nhân đáp ứng tốt hơn trong quá trình điều trị.
Đây là ưu điểm rất lớn mà các phương pháp trên không làm được vì rất nhiều bệnh nhân ung thư đại, trực tràng tử vong không phải do khối u mà do sức đề kháng yếu, không chịu đựng được đau đớn và các tác dụng phụ của phương pháp điều trị.
Trong số những sản phẩm hỗ trợ điều trị nói trên, sản phẩm chiết xuất từ nọc bọ cạp xanh, loài bọ cạp đặc chủng chỉ có ở Cuba bằng phương pháp vi lượng đồng căn Vidatox Plus đang là lựa chọn tối ưu của bệnh nhân ung thư đại, trực tràng.
6. Nọc bọ cạp xanh Cuba tiêu diệt tế bào ung thư đại, trực tràng từ gốc
VTV1 đưa tin: Nọc bọ cạp xanh Cuba chữa ung thư hiệu quả
Nghiên cứu lâm sàng của các nhà khoa học Tập đoàn Labiofam, Cuba về thành phần, hoạt tính, công dụng của nọc bọ cạp xanh trong hỗ trợ điều trị ung thư chỉ ra:
Thứ nhất, hoạt chất nọc bọ cạp xanh kích hoạt khả năng tự chết của tế bào ung thư đại, trực tràng, hỗ trợ điều trị hiệu quả ngay từ giai đoạn đầu, kiểm soát được sự tăng trưởng vô tổ chức của tế bào đại, trực tràng là nguyên nhân gây đột biến gen và sự hình thành các khối u đại, trực tràng ác tính.
Bên cạnh đó, nọc bọ cạp xanh tiêu diệt các tế bào mầm ung thư đại, trực tràng và các loại ung thư khác ngay từ khi chúng mới hình thành, từ đó giúp những người có nguy cơ bị ung thư đại, trực tràng được ngăn chặn, hạn chế ngay từ đầu, phòng ngừa ung thư đại, trực tràng, một công dụng vượt trội trong việc hỗ trợ chống tái phát: nghĩa là ung thư đại, trực tràng có thể tái phát trở lại sau một khoảng thời gian điều trị. Nó có thể tái phát trở lại trong đại tràng hay trực tràng, hoặc trong một bộ phận khác của cơ thể.
Khi sử dụng nọc bọ cạp xanh, khối u của bệnh nhân ung thư đại, trực tràng giai đoạn 1, 2, 3, 4 teo đi rõ rệt, giảm sự chèn ép của khối u lên các các mô và dây thần kinh, các cơ quan kề bên giúp bệnh nhân ung thư đại, trực tràng giai đoạn muộn giảm đau hiệu quả.
VTC14 ĐƯA TIN: NỌC BỌ CẠP XANH CUBA HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ
Thứ hai, hoạt chất nọc bọ cạp xanh kéo dài sự sống cho bệnh nhân ung thư đại, trực tràng giai đoạnsau nhờ cơ chế ngăn chặn sự tăng sinh các mạch máu tới nuôi dưỡng khối u.
Nọc bọ cạp xanh ngăn chặn được việc hình thành mạch máu mới, phá hủy “càng bám” của tế bào ung thư đại, trực tràng vào các tổ chức lành trong cơ thể, làm chúng chết dần theo chu trình, không có dinh dưỡng để lớn lên và phát triển nên không thể phá hoại các cơ quan khác, từ đó ngăn chặn sự xâm lấn các mô xung quanh, giúp bệnh nhân ung thư đại, trực tràng giai đoạn muộn giảm đau hiệu quả và kéo dài được sự sống cho bệnh nhân.
Thứ ba, hoạt chất nọc bọ cạp xanh có tác dụng chọn lọc, chỉ tấn công vào tế bào ung thư đại, trực tràng, đây là điểm đặc biệt vượt trội so với các sản phẩm, phương pháp điều trị khác. Chúng tấn công tế bào ung thư đại, trực tràng mà không làm tổn hại tới các tế bào khỏe mạnh. Do đó, người bệnh sử dụng sản phẩm chiết xuất nọc bọ cạp xanh Cuba có thể yên tâm vì các tác dụng phụ gần như không có. Bệnh nhân có thể kết hợp với nhiều phương pháp để đem lại hiệu quả điều trị tốt nhất.
Thứ tư, hoạt chất nọc bọ cạp xanh giúp bệnh nhân ung thư đại, trực tràng nâng cao thể trạng, tăng cường hệ miễn dịch, từ đó bệnh nhân thấy ăn ngon miệng hơn, không đau đớn, sức đề kháng tăng lên rõ rệt, đáp ứng tốt được phác đồ điều trị hoặc sức khỏe sau hậu phẫu, xạ trị, hóa trị.
Vidatox Plus chiết xuất nọc bọ cạp xanh Rhopalurus junceus, thành quả sau 15 năm nghiên cứu của các nhà khoa học Cuba thực sự là một món quà vô giá, niềm hy vọng sống không những của bệnh nhân ung thư đại, trực tràng mà còn là niềm hy vọng sống của nhiều bệnh nhân ung thư khác trên khắp thế giới.
UNG THƯ KHÔNG PHẢI LÀ KẾT THÚC KHI BẠN TÌM ĐƯỢC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ VÀ SẢN PHẨM GIÚP ĐIỀU TRỊ UNG THƯ HIỆU QUẢ!
HÃY GỌI 18006739 ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN UNG THƯ ĐẠI, TRỰC TRÀNG (MIỄN PHÍ) VÀ ĐẶT MUA SẢN PHẨM VIDATOX PLUS CHÍNH HÃNG